Xạ trị lập thể định vị thân là gì? Các công bố khoa học về Xạ trị lập thể định vị thân

Xạ trị lập thể định vị thân là một kỹ thuật được sử dụng để xác định vị trí của một đối tượng trong không gian. Kỹ thuật này sử dụng các cảm biến như GPS, phươn...

Xạ trị lập thể định vị thân là một kỹ thuật được sử dụng để xác định vị trí của một đối tượng trong không gian. Kỹ thuật này sử dụng các cảm biến như GPS, phương pháp đo đạc bằng sóng radio, máy ảnh hoặc cảm biến lực để thu thập thông tin về vị trí và hướng di chuyển của đối tượng. Các dữ liệu thu thập được sau đó được sử dụng để tính toán và định vị chính xác vị trí của đối tượng trong không gian. Xạ trị lập thể định vị thân được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như bản đồ, điều hướng, quân sự và cảnh quan.
Xạ trị lập thể định vị thân là một phương pháp sử dụng cảm biến và các thuật toán tính toán để xác định vị trí chính xác của một đối tượng trong không gian. Kỹ thuật này phụ thuộc vào việc thu thập dữ liệu từ các cảm biến như GPS, máy ảnh, cảm biến tiếp xúc, cảm biến lực, cảm biến hình ảnh hoặc các cảm biến khác.

GPS (hệ thống định vị toàn cầu) được sử dụng rộng rãi trong xạ trị lập thể định vị thân. GPS thu thập thông tin từ các vệ tinh để xác định vị trí của đối tượng. Tuy nhiên, GPS có thể gặp khó khăn trong việc định vị chính xác trong môi trường nội khu hoặc nơi có chướng ngại vật.

Phương pháp đo đạc bằng sóng radio là một phương pháp mà tín hiệu sóng đi qua không gian và được thu bởi các cảm biến để tính toán vị trí. Các phương pháp này có thể sử dụng sóng radio, sóng siêu âm hoặc sóng ánh sáng để đo đạc khoảng cách hoặc phương hướng.

Máy ảnh cũng có thể được sử dụng trong xạ trị lập thể định vị thân. Các hình ảnh được chụp bởi máy ảnh có thể được phân tích để xác định vị trí, hướng di chuyển và các yếu tố môi trường như các đối tượng xung quanh.

Cảm biến lực đo lực tác động lên đối tượng và sử dụng thông tin này để tính toán vị trí của đối tượng. Các cảm biến lực thường được sử dụng trong các ứng dụng như thể thao, y tế hoặc robot.

Cảm biến hình ảnh nhận dạng và phân tích hình ảnh để xác định vị trí và các yếu tố môi trường. Các cảm biến hình ảnh có thể sử dụng các thuật toán như nhận dạng khuôn mặt, nhận dạng vật thể hoặc thị giác máy tính để xác định vị trí của đối tượng.

Khi đã thu thập đủ thông tin từ các cảm biến, các thuật toán tính toán được sử dụng để xác định vị trí chính xác của đối tượng trong không gian. Các thuật toán này sẽ phụ thuộc vào các cảm biến được sử dụng và các điều kiện môi trường.

Xạ trị lập thể định vị thân có rất nhiều ứng dụng thực tế, bao gồm bản đồ số, điều hướng đường đi, quân sự, cải thiện trải nghiệm mua sắm hoặc sử dụng trong ngành công nghiệp với các robot tự động.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "xạ trị lập thể định vị thân":

HIỆU QUẢ VÀ ĐỘ AN TOÀN CỦA XẠ TRỊ LẬP THỂ ĐỊNH VỊ THÂN TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN CÓ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH CỬA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu và độc tính của kỹ thuật xạ trị lập thể định vị thân trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn tiến triển có huyết khối tĩnh mạch cửa (HKTMC). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc trên 31 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan có huyết khối thân hoặc nhánh chính tĩnh mạch cửa, được điều trị bằng kỹ thuật xạ trị lập thể định vị thân, theo dõi từ 07/2018 đến 06/2021 tại Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108. Đánh giá tỷ lệ đáp ứng huyết khối, thời gian sống thêm toàn bộvà các tác dụng phụ. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng huyết khối sau 3 tháng, 6 tháng lần lượt là 67,7%; 37,9%. Trung vị thời gian sống thêm toàn bộ là 13 tháng. Tỷ lệ sống thêm toàn bộ sau 6 tháng, 1 năm lần lượt là 93,5%; 54,8%. Các độc tính chủ yếu độ 1-2 bao gồm giảm tiểu cầu, tăng enzyme gan, đau hạ sườn phải.Không có tử vong liên quan đến điều trị. Kết luận: Xạ trị lập thể định vị thân là phương pháp an toàn và có hiệu quả trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan có HKTMC.
#Xạ trị lập thể định vị thân #ung thư biểu mô tế bào gan #huyết khối tĩnh mạch cửa
17. Đánh giá đáp ứng sau 3 tháng xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm theo tiêu chuẩn RECIST và PERCIST
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá đáp ứng sau 3 tháng xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân (BN) ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) giai đoạn I với u phổi ngoại vi theo tiêu chuẩn RECIST 1.1 và PERCIST 1.0. Đây là nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 32 BN UTPKTBN giai đoạn T1-T2aN0M0 với u phổi ngoại vi, được xạ trị lập thể định vị thân và đánh giá sau 3 tháng từ tháng 01/2015 đến 03/2022. Đáp ứng điều trị sau 3 tháng được đánh giá theo RECIST 1.1 và PERCIST 1.0. Kết quả có sự thay đổi tỉ lệ giai đoạn T1a và T1b trên CT ngực lần lượt là 25% và 31,3% so với tỉ lệ tương ứng trên PET/CT là 18,8% và 37,5%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Theo RECIST 1.1, không có BN đáp ứng hoàn toàn, 41,4% đáp ứng 1 phần, 37,9% bệnh ổn định, 20,7% bệnh tiến triển, tỉ lệ đáp ứng khách quan 41,4%, tỉ lệ kiểm soát bệnh 79,3%. Theo PERCIST 1.0, có 1 BN đáp ứng hoàn toàn, các tỉ lệ khác lần lượt là 65,5%, 24,1%, 6,9%, 68,9% và 93%, sự khác biệt giữa 2 tiêu chuẩn có ý nghĩa thống kê với p = 0,021. Tóm lại: Sử dụng tiêu chuẩn PERCIST 1.0 làm thay đổi tỉ lệ đáp ứng điều trị có ý nghĩa thống kê so với tiêu chuẩn RECIST 1.1. Đặc biệt, 13,8% số bệnh nhân tiếp tục được hưởng lợi ích của xạ trị lập thể định vị thân sau khi đánh giá theo PERCIST 1.0.
#ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm #xạ trị lập thể định vị thân #RECIST 1.1 #PERCIST 1.0
Kết quả điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm bằng xạ trị lập thể định vị thân
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn I (T1-T2aN0M0) không có chỉ định phẫu thuật bằng SBRT. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 32 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn T1-T2aN0M0, u phổi ngoại vi, được SBRT, theo dõi và đánh giá từ tháng 01/2015 đến tháng 11/2021. Tiêu chuẩn chính là thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS). Tiêu chuẩn phụ là thời gian sống thêm toàn bộ (OS), tỷ lệ sống còn tại các thời điểm 1 năm, 2 năm, 3 năm, 4 năm, 5 năm và tác dụng không mong muốn. Kết quả: Trung vị độ tuổi là 67 tuổi, trung vị kích thước khối u là 2,65cm, giá trị SUVmax trung bình 7,95, giai đoạn của khối u chủ yếu là T2a (43,7%). Trung vị PFS 29 tháng, tỷ lệ PFS 2 năm và 3 năm lần lượt là 59,8% và 42,3%, trung vị OS 59 tháng, tỷ lệ OS tại thời điểm 1 năm là 96,8%, 2 năm 88,6%, 3 năm 84,2%, 4 và 5 năm lần lượt là 63,1% và 42,1%. BN đạt kiểm soát bệnh theo tiêu chuẩn PERCIST 1.0 giảm nguy cơ tử vong với HR = 0,053 (CI 95%: 0,003-0,86), p=0,039. Trung vị PFS ở nhóm SUVmax < 5 dài hơn so với nhóm có SUVmax ≥ 5, p=0,032. Cyfra 21-1 trước và sau SBRT, kích thước khối u là những yếu tố tiên lượng thời gian sống thêm. Tác dụng không mong muốn hay gặp là viêm phổi do xạ với 10 BN, chủ yếu độ 1, độ 2, không có viêm phổi do xạ độ 4, 5, có 1 trường hợp gãy xương sườn do xạ. Không có sự thay đổi chức năng hô hấp của BN sau SBRT. Kết luận: SBRT là một phương pháp điều trị triệt căn hiệu quả cho bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn sớm không phẫu thuật được với u phổi ngoại vi. Giá trị SUVmax trước điều trị, tỷ lệ kiểm soát bệnh tại thời điểm 3 tháng sau SBRT theo tiêu chuẩn PERCIST 1.0 và Cyfra 21-1 trước và sau điều trị là những yếu tố tiên lượng thời gian sống thêm của bệnh nhân. Đồng thời, SBRT là một phương pháp an toàn.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm #xạ trị lập thể định vị thân
Bước đầu đánh giá mối liên quan giữa nồng độ Cyfra 21-1 và tiên lượng sống thêm ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa Cyfra 21-1 và thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được SBRT. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 32 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn T1-T2aN0M0 với u phổi ngoại vi, được SBRT và đánh giá thời gian sống thêm từ tháng 01/2015 đến 11/2021. Mối liên quan với thời gian sống thêm (PFS và OS) của các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng được phân tích đa biến. Kết quả: Trung vị tuổi là 67 tuổi, có 35,5% bệnh nhân tăng CEA và 22,6% bệnh nhân tăng Cyfra 21-1 trước điều tri. Có mối tương quan thuận, mức độ trung bình, có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ Cyfra 21-1 và kích thước của khối u, với hệ số tương quan r = 0,4, p=0,024. Nồng độ Cyfra 21-1 trước điều trị thấp làm giảm nguy cơ bệnh tiến triển 44%, p=0,01. Ngược lại, nồng độ Cyfra 21-1 sau điều trị cao làm tăng nguy cơ tiến triển bệnh lên 1,6 lần, p=0,016. Nồng độ Cyfra 21-1 sau 3 tháng tăng làm tăng nguy cơ tử vong lên 2,9 lần với p=0,005.  Kết luận: Có mối liên quan giữa nồng độ Cyfra 21-1 trước điều trị với PFS, trong khi đó, Cyfra 21-1 sau 3 tháng điều trị liên quan với cả PFS và OS ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được SBRT.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm #xạ trị lập thể định vị thân #Cyfra 21-1
Tác dụng không mong muốn và biến chứng của kỹ thuật xạ trị lập thể định vị thân trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất
Mục tiêu: Đánh giá độ an toàn của phương pháp xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp tiến cứu, có đối chứng trên 42 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân (Nhóm I) và 38 bệnh nhân điều trị bằng hóa tắc mạch hạt vi cầu DC Bead (Nhóm II). Đánh giá biến chứng sau SBRT theo CTCAE V5.0. Kết quả: Tác dụng phụ sớm ở bệnh nhân nhóm I chủ yếu là mệt mỏi (23,8%), nhóm II chủ yếu thấy đau vùng gan (47,4%), khác biệt có ý nghĩa, p<0,05. Biến chứng sớm ở nhóm I là viêm gan đợt cấp (4,8%), viêm da (4,8%) khác biệt không có ý nghĩa so với nhóm II (0%), p>0,05. Biến chứng lâu dài ở nhóm I: Viêm gan đợt cấp (2,4%), tràn dịch màng phổi (7,1%), viêm da (2,4%) không có sự khác biệt có ý nghĩa so với nhóm II: Viêm gan cấp (0%), tràn dịch màng phổi (2,6%), viêm da (0%), p>0,05. Không có tử vong liên quan đến kỹ thuật can thiệp ở cả 2 nhóm. Kết luận: SBRT là phương pháp điều trị an toàn, không có biến chứng nặng cho bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #xạ trị lập thể định vị thân #tắc mạch hóa chất #biến chứng
Kết quả bước đầu xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan có huyết khối tĩnh mạch cửa tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu và độc tính của kỹ thuật xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn tiến triển có huyết khối tĩnh mạch cửa (HKTMC). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc trên 30 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan có HKTMC, được điều trị bằng kỹ thuật SBRT, theo dõi từ tháng 07/2018 đến tháng 04/2021. Đánh giá tỷ lệ đáp ứng huyết khối, trung vị thời gian sống thêm, thời gian sống thêm toàn bộ (OS), và các tác dụng phụ. Kết quả: Vị trí huyết khối chủ yếu là Vp3 + Vp4 chiếm 53,3%. Liều xạ trung bình: 35,7 ± 3,1Gy/3 - 5 phân liều. Tỷ lệ đáp ứng huyết khối sau 1 tháng, 3 tháng lần lượt là 80%, 73,3%. Trung vị thời gian sống thêm toàn bộ 14,5 tháng, tỷ lệ sống thêm toàn bộ sau 6 tháng, 1 năm lần lượt là 96,7%, 63,3%. Các độc tính chủ yếu độ 1 - 2 gồm mệt mỏi, buồn nôn, đau hạ sườn phải. Kết luận: SBRT là phương pháp có hiệu quả và an toàn trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan có HKTMC với độc tính thấp.
#Xạ trị lập thể định vị thân #ung thư biểu mô tế bào gan #huyết khối tĩnh mạch cửa
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hình ảnh PET/CT ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm có chỉ định xạ trị lập thể định vị thân
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hình ảnh PET/CT ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm (T1-T2aN0M0) có chỉ định trị xạ trị lập thể định vị thân. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, 32 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn I (T1-T2aN0M0) có u phổi ngoại vi, được xem xét chỉ định xạ trị lập thể định vị thân từ tháng 01/2015 đến 11/2022. Các bệnh nhân được khám lâm sàng, xét nghiệm cận lâm sàng, chẩn đoán xác định bệnh, giai đoạn bệnh, đo thông khí phổi và chụp PET/CT trước khi xạ trị lập thể định vị thân. Kết quả: Trung vị độ tuổi là 67 tuổi, trong đó 25% bệnh nhân từ 75 tuổi trở lên, đa số là nam giới (65,6%) và có tiền sử hút thuốc (59,4%). Ho khan và đau ngực là 2 triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất, chiếm lần lượt 62,5% và 46,9%. 50% bệnh nhân có tình trạng toàn thân 2 điểm theo ECOG, khối u chủ yếu ở phổi phải (56,3%), đa số là ung thư biểu mô tuyến (78,2%). Chỉ 35,5% bệnh nhân có tăng CEA và 22,6% có tăng Cyfra 21-1, có mối tương quan thuận, mức độ trung bình có ý nghĩa giữa nồng độ Cyfra 21-1 và kích thước khối u với r = 0,436, p=0,014. Trung vị kích thước khối u là 2,95cm, giá trị trung vị SUVmax 7,95, khối u ở giai đoạn T2a (43,7%). Tỷ lệ giai đoạn T1a và T1b trên CT scan ngực lần lượt là 25% và 31,3%, trên PET/CT, 2 giai đoạn này tương ứng 18,8%, 37,5%, sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05. 50% số bệnh nhân có rối loạn thông khí tắc nghẽn trên kết quả thông khí phổi. Kết luận: Đa số bệnh nhân là cao tuổi, thường có triệu chứng ho khan, đau ngực và chủ yếu là ung thư biểu mô tuyến. Có mối tương quan thuận mức độ trung bình giữa Cyfra 21-1 với kích thước khối u. PET/CT làm thay đổi có ý nghĩa thống kê tỷ lệ giai đoạn T1a và T1b so với CT scan ngực.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm #xạ trị lập thể định vị thân #PET/CT
Kết quả xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tồn dư sau TACE tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm và độc tính của xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn trung gian tồn dư sau TACE. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp, không đối chứng trên 36 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn trung gian tồn dư sau TACE, được điều trị SBRT với liều 27,5 - 50Gy/3 - 5 phân liều. Đánh giá đáp ứng điều trị, tỷ lệ kiểm soát tại chỗ, tỷ lệ sống thêm toàn bộ và độc tính. Kết quả: Đường kính u trung bình là 7,1 ± 2,3cm. Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn và một phần tại u là 58,3% và 31,0%. Trung vị thời gian theo dõi là 15,5 tháng. Tỷ lệ kiểm soát tại chỗ 1 năm và 2 năm là 73,3% và 61,1%. Tỷ lệ sống thêm toàn bộ 1 năm và 2 năm là 83,7% và 52,7%. Các độc tính chủ yếu độ 1 - 2 gồm mệt mỏi (25,0%), buồn nôn (16,7%), đau hạ sườn phải (13,9%), 1 bệnh nhân (2,8%) bị suy gan độ 3. Kết luận: Điều trị SBRT có khả năng kiểm soát tốt các tổn thương ung thư biểu mô tế bào gan tồn dư sau TACE với độc tính thấp.
#Ung thư gan #xạ trị lập thể định vị thân #TACE
Mối liên quan giữa kết quả điều trị xạ trị lập thể định vị thân với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm có khối u ngoại vi
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa kết quả xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) với một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) giai đoạn sớm (T1-T2aN0M0) có khối u ngoại vi. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, 23 bệnh nhân UTPKTBN ở ngoại vi giai đoạn I (T1-T2aN0M0) được điều trị SBRT, theo dõi và đánh giá từ tháng 01/2015 đến 01/2020. Chỉ tiêu của nghiên cứu là mối liên quan của tỷ lệ đáp ứng, thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS), thời gian sống thêm toàn bộ (OS) với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng. Kết quả: Tuổi trung bình là 65,1 tuổi, kích thước trung bình của khối u là 3,31cm. Tỷ lệ đáp ứng khách quan 91,3%, tỷ lệ kiểm soát bệnh 95,7%. Trung vị PFS 26 tháng, trung vị OS 58 tháng. Giá trị trung bình của SUVmax trước điều trị là 7,77 giảm xuống 4,99 sau điều trị, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,000), sự thay đổi của CEA và Cyfra 21-1 không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bệnh nhân không hút thuốc, không sụt cân, thang điểm toàn trạng 0 - 1 điểm, bệnh nhân có u ≤ 3cm có trung vị PFS và OS cao hơn bệnh nhân hút thuốc, sụt cân, toàn trạng 2 điểm, bệnh nhân có u > 3cm (p>0,05). Không có sự khác biệt về trung vị PFS và OS giữa bệnh nhân từ chối phẫu thuật và không phẫu thuật được do bệnh đồng mắc nặng. Không thấy mối tương quan giữa thời gian hút thuốc, số bao - năm, liều SBRT, giá trị CEA, Cyfra 21-1, SUVmax trước và sau điều trị 3 tháng điều trị với thời gian sống thêm ở bệnh nhân điều trị SBRT. Kết luận: SBRT là phương pháp điều trị cho kết quả tốt. Giá trị SUVmax có mối liên quan đến đáp ứng điều trị nhưng không phải là yếu tố tiên lượng đối với thời gian sống thêm của bệnh nhân. Không có đặc điểm nào liên quan đến thời gian sống thêm của bệnh nhân SBRT. Từ khóa: Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm, xạ trị lập thể định vị thân.  
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm #xạ trị lập thể định vị thân
Kết quả sớm của phương pháp xạ trị lập thể định vị thân điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của phương pháp xạ trị lập thể định vị thân so với tắc mạch hóa chất nhắc lại trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp tiến cứu, có đối chứng trên 42 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (UTBG) điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) và 38 bệnh nhân điều trị bằng hóa tắc mạch hạt vi cầu DC Bead. Đánh giá đáp ứng lâm sàng, xét nghiệm, AFP, đáp ứng khối u (theo mRECIST) tại thời điểm 3, 6 tháng sau điều trị. Kết quả: Đáp ứng lâm sàng ở nhóm I (61,9%) có sự khác biệt so với nhóm II (23,7%), p<0,05. Đáp ứng AFP ở nhóm I (56,5%) có xu hướng cao hơn so với nhóm II (42,9%), p>0,05. Đáp ứng khối u thời điểm 6 tháng ở nhóm I (đáp ứng hoàn toàn 51,4%, đáp ứng một phần 8,1%) có sự khác biệt so với nhóm II (21,9% và 3,1%), p<0,05. Kết luận: Xạ trị lập thể định vị thân cho tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và đáp ứng khối u có sự khác biệt so với tắc mạch nhắc lại điều trị cho các bệnh nhân còn tồn dư sau TACE.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #xạ trị lập thể định vị thân #tắc mạch hóa chất #đáp ứng u gan
Tổng số: 14   
  • 1
  • 2